Trang

Thứ Sáu, 29 tháng 9, 2017

Cấu thành tội phạm của tội Hiếp dâm

Trong những năm gần đây, tội phạm hiếp dâm xảy ra ngày càng nhiều, trên thế giới đã xảy ra không ít những vụ hiếp dâm gây rúng động dư luận. Tại Việt Nam, tội phạm hiếp dâm đang trở thành một vấn nạn, không chỉ gây tổn hại về danh dự, sức khỏe thậm chí là tính mạng của người bị hại mà nó còn gây nên những tổn thương sâu sắc về tâm lý của nạn nhân và gia đình của họ. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tội hiếp dâm được quy định tại Điều 111 BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2009 (Điều 141 BLHS 2015). Hình phạt của tội phạm này được quy định tương đối cao, khoản 1 của tội này đã có khung hình phạt từ 2 đến 7 năm.


   Cấu thành của tội hiếp dâm như sau:
            1. Về chủ thể của tội phạm
            Chủ thể của tội phạm phải đạt đến một độ tuổi nhất định và phải có năng lực nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Đối với tội hiếp dâm, chủ thể của tội phạm phải từ 16 tuổi trở lên. Theo quy định của pháp luật hình sự thì không có văn bản nào thể hiện chủ thể của tội hiếp dâm chỉ là nam mà pháp luật chỉ quy định “người nào dùng vũ lực…”. Nhưng theo thực tiễn xét xử ở nước ta thì chủ thể của tội phạm này thường được xác định là nam giới, nữ giới nếu có là chủ thể của tội phạm thì chỉ có thể ở dạng đồng phạm như người tổ chức, người xúi giục hoặc người giúp sức. Tuy nhiên, vấn đề về chủ thể của tội phạm hiếp dâm hiện nay vẫn còn nhiều quan điểm, chúng tôi sẽ bàn về vấn đề này trong một bài viết sau.
            2. Khách thể của tội phạm
Là quan hệ nhân thân mà nội dung là quyền tự do tình dục của con người. Đối tượng tác động là người phụ nữ. Về vấn đề bị hại của tội hiếp dâm chỉ là phụ nữ hay có thể là cả nam giới, hiện nay cũng đang có nhiều ý kiến trái chiều, về vấn đề này chúng tôi cũng xin được bàn trong bài viết kế tiếp.
3. Mặt khách quan của tội phạm
Về hành vi khách quan của tội phạm này, có hai chuỗi hành vi khách quan:
+ Thứ nhất là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệđược của nạn nhân hoặc dùng thủđoạn khác;
+ Thứ hai là giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn của họ hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái ý muốn của nạn nhân (theo quy định của BLHS 2015). Hành vi giao cấu hay hành vi quan hệ tình dục khác được coi là trái với ý muốn của nạn nhân khi hành vi đó không được nạn nhân đồng ý, chấp nhận.
Tội phạm hoàn thành khi cả hai chuỗi hành vi trên được thực hiện.
4. Mặt chủ quan của tội phạm
Lỗi trong tội phạm này là lỗi cố ý trực tiếp. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cũng có một số trường hợp khó xác định sự cố ý hiếp dâm của người phạm tội. Thông thường, người phạm tội bào chữa rằng mình không có ý giao cấu với nạn nhân mà chỉ có ý định trêu gẹo trong những trường hợp người phạm tội mới có hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc dùng thủ đoạn khác nhưng chưa giao cấu được, cùng lắm là người phạm tội  chỉ nhận có hành vi làm nhục, với những trường hợp này việc chứng minh sự cố ý của người phạm tội là khá khó khăn.
Trên đây là một số thông tin cơ bản về cấu thành của tội hiếp dâm, tuy nhiên thực tiễn xét xử tội phạm này hiện nay đang gặp phải một số vướng mắc từ việc xác định chủ thể của tội phạm cũng như nạn nhân của loại tội phạm này, về vấn đề này chúng tôi sẽ đưa ra phân tích trong bài viết kế tiếp.
Quý khách hàng hãy liên hệ với chúng tôi, Luật Việt Tín cung cấp dịch vụ tư vấn trong trường hợp cụ thể để giúp quý khách hàng bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình.


Vấn đề về chủ thể của tội hiếp dâm

Như đã trình bầy ở bài viết trước, trong những năm gần đây tội phạm hiếp dâm xảy ra ngày càng nhiều, tội phạm này là một tệ nạn nhức nhối đặc biệt là ở những vùng nông thôn thì nạn nhân của tội hiếp dâm và gia đình của họ sẽ phải chịu những áp lực nặng nề về tâm lý. Bên cạnh đó, khi vấn đề quan hệ đồng tính ngày một nhiều hơn thì cách hiểu thế nào về chủ thể của tội hiếp dâm cũng có nhiều quan điểm và ý kiến trái chiều.

Trước tiên cần khẳng định trong quy định của điều luật của tội Hiếp dâm (Điều 111 BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2009 và Điều 141 BLHS 2015) không quy định chủ thể của tội phạm chỉ có thể là nam, bởi điều luật chỉ quy định “Người nào dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực…
Điều khẳng định thứ hai đó là chủ thể của tội phạm hoàn toàn có thể là nữ trước tiên là trong trường hợp đồng phạm, với vai trò là người tổ chức, người xúi giục hay người giúp sức.
Căn cứ theo sự phát triển tâm sinh lý và dựa vào đặc tính sinh học của người nam giới nên từ trước đến nay, chúng ta thường quan niệm nạn nhân của tội hiếp dâm luôn là nữ giới và chủ thể thực hiện tội phạm phải là nam giới, bởi chúng ta thường hiểu là chỉ có nam giới mới có đủ sức khỏe để dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực khống chế một người để quan hệ tình dục, và sẽ rất khó để có chiều ngược lại bởi so với nam giới thì nữ giới không thể đủ sức khỏe để dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực đối với nam giới. Và trong thực tiễn xét xử ở nước ta thì chủ thể của tội phạm hiếp dâm thường được xác định là nam giới và bị hại là nữ giới.
Quay trở lại với quy định của Điều luật 111 trong BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2009. “Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn của họ, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm
Còn tại quy định về tội hiếp dâm theo Điều 141 BLHS 2015: “Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân trái thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm
Theo quy định trong BLHS sửa đổi, bổ sung 2009 hay BLHS 2015 đều chỉ quy định là người nào chứ không quy định rõ chỉ là nam giới. Do đó, nếu xét trên nội dung của điều luật thì chủ thể của tội phạm hoàn toàn có thể là nữ giới. Trong thực tiễn đấu tranh phòng chống loại tội phạm này, hành vi dùng “thủ đoạn khác” để giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn của họ có thể là hành vi được thực hiện bởi nữ giới. Ví dụ: cho uống thuốc kích dục,… Do đó, không thể loại trừ khả năng này trên thực tế, và hành vi người nữ giới dùng “thủ đoạn khác” giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn của nạn nhân thì có thể coi là tội phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định.

Trên đây là một số chia sẻ về vấn đề chủ thể của tội hiếp dâm. Quý khách hàng hãy liên hệ với chúng tôi, Luật Việt Tín cung cấp dịch vụ tư vấn trong trường hợp cụ thể để giúp quý khách hàng bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình.

Tư vấn về tội Chống người thi hành công vụ

Trong những năm gần đây, những hành vi chống người thi hành công vụ ngày càng gia tăng với tính chất và mức độ mang nhiều sự nguy hiểm hơn. Đối tượng tác động của hành vi này hiện này chủ yếu là lưc lượng Cảnh sát giao thông…Hành vi chống người thi hành công vụ là hành vi vi phạm pháp luật được quy định trong BLHS và Nghị định 167 ngày 12.11.2013 quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực an toàn, an ninh, trật tự xã hội…

Tội Chống người thi hành công vụ được quy định tại Điều 257 BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2009, nay là Điều 330 BLHS 2015. Về nội dung của điều luật thì không thay đổi so với quy định của BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2009.
Chống người thi hành công vụ là hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật. Theo cấu thành cơ bản của điều luật thì tội chống người thi hành công vụ là tội ít nghiêm trọng. Đúng như tên gọi của điều luật, khách thể của tội phạm này là xâm phạm đến việc thực hiện nhiệm vụ của những người đang thi hành công vụ và thông qua đó xâm phạm đến hoạt động của Nhà nước về quản lý hành chính trong lĩnh vực thi hành nhiệm vụ công.
Đối tượng tác động của tội phạm này là người đang thi hành công vụ. Người đang thi hành công vụ được nói đến tại điều luật này rất đa dạng, có thể là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao một nhiệm vụ và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ, cá biệt cũng có trường hợp là công dân bình thường, họ được điều động thực hiện một công vụ cấp bách nào đó vì lợi ích chung cũng được xem là người thi hành công vụ. Người đang thi hành công vụ là người đã bắt đầu thực hiện nhiệm vụ và chưa kết thúc, nếu chưa bắt đầu hoặc đã kết thúc nhiệm vụ mà bị xâm phạm thì không thuộc trường hợp chống người thi hành công vụ, mà tuỳ trường hợp cụ thể để xác định một tội phạm khác có thể cùng với tình tiết vì lý do công vụ của nạn nhân.
Mặc dù tại khoản 1 của điều luật có khung hình phạt là đến 3 năm tù, là tội phạm ít nghiêm trọng, nếu căn cứ vào các điều kiện để được hưởng án treo thì tội chống người thi hành công vụ là tội phạm có thể được hưởng án treo, tuy nhiên trong thực tiễn xét xử thì tội chống người thi hành công vụ thì hầu như không được xử án treo.
Hành vi chống người thi hành công vụ trong BLHS và Nghị định 167 ngày 12.11.2013 chưa quy định rõ “ranh giới” để phân biệt vi phạm đến mức độ nào thì được xem là chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và bị xử phạt vi phạm hành chính, và khi nào sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi chống người thi hành công vụ. Quy định trong BLHS hay Nghị định 167 đề rất chung chung, nên trong thực tiễn rất khó áp dụng. Quý khách hàng hãy liên hệ với chúng tôi, Luật Việt Tín cung cấp dịch vụ tư vấn trong trường hợp cụ thể để giúp quý khách hàng bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình.