Trang

Chủ Nhật, 1 tháng 10, 2017

Cấu thành tội cướp giật tài sản

            Cướp giật tài sản là hành vi nhanh chóng giật lấy tài sản của người khác một cách công khai rồi tìm cách tẩu thoát. Đây là tội danh được quy định tại Điều 136 BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2009 (Điều 171 BLHS 2015). Đặc điểm nổi bật của tội cướp giật tài sản là người phạm tội lợi dụng sơ hở của người quản lý tài sản để nhanh chóng giật lấy tài sản mà người quản lý khó có thể giữ được hoặc giằng lại được mà không cần dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực hay dùng bất cứ thủ đoạn nào khác để uy hiếp tinh thần của người quản lý tài sản. Tính chất công khai, trắng trợn của hành vi cướp giật tài sản thể hiện ở chỗ người phạm tội không giấu diếm hành vi phạm tội của mình, trước, trong hoặc ngay sau khi bị mất tài sản người bị hại biết ngay người giật tài sản của mình.

            Cấu thành của tội trộm cắp tài sản như sau:
            1. Về chủ thể của tội phạm
            Chủ thể của tội phạm phải đạt đến một độ tuổi nhất đinh và phải có năng lực nhận thức và điều khiển hành vi của mình.
Phạm tội trong trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 136 Bộ luật hình sự thì người phạm tội phải từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự.
Phạm tội trong trường hợp quy định tại Khoản 2, 3, 4 Điều 136 thì người phạm tội phải từ đủ 14 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự.
            2. Về khách thể của tội phạm
            Cũng giống như những tội xâm phạm sở hữu khác, khách thể của tội cướp giật tài sản  là quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân, nhưng chủ yếu là quan hệ tài sản. Mặc dù những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ không phải là đối tượng mà người phạm tội nhằm vào, nhưng trước khi thực hiện hành vi cướp giật, người phạm tội nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi và hậu quả nguy hiểm của hành vi nhưng vẫn thực hiện và muốn hậu quả xảy ra.
            3. Về mặt khách quan của tội phạm
            - Hành vi khách quan: Có thể nói, đặc trưng của tội cướp giật tài sản là hành vi giật tài sản, tức là giằng mạnh lấy tài sản về mình một cách nhanh chóng ( ngay tức khắc). Hành vi giật tài sản có thể kết hợp với các thủ đoạn như lợi dụng chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản không chú ý, bất ngờ giật lấy tài sản, hoặc lợi dụng chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản đang bị vướng mắc, đang ở nơi đông đúc hoặc đang điều khiển phương tiện giao thông để giật tài sản…
Tuy nhiên, cần lưu ý là trong quá trình thực hiện hành vi giật tài sản, nếu người chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản có hành động chống cự để giữ lấy tài sản, mà lúc này người phạm tội lại có hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực với người đó để chiếm bằng được tài sản thì hành vi cướp giật tài sản sẽ chuyển hoá thành hành vi cướp tài sản.
- Hậu quả: Tội cướp giật tài sản là tội có cấu thành vật chất, nên khi nào người phạm tội giật được tài sản thì tội phạm mới hoàn thành, nếu có hành vi giật nhưng chưa giật được tài sản thì thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt.
            Hậu quả của tội cướp giật tài sản trước hết là những thiệt hại về tài sản, tiếp theo có thể là những thiệt hại về sức khoẻ, tính mạng hoặc những thiệt hại khác.
            4. Về mặt chủ quan của tội phạm
            - Lỗi trong tội cướp giật tài sản là lỗi cố ý. Mục đích của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản.

            Nhìn chung, tội cướp giật tài sản đã được quy định chế tài tương đối rõ ràng, quý khách hàng hãy liên hệ với Luật Việt Tín, chúng tôi sẽ tư vấn để quý khách hàng có thể bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong những trường hợp cụ thể. 

Tư vấn về án treo trong bộ luật hình sự

Án treo là một chế định trong luật hình sự. Án treo không phải là hình phạt, mà là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện.


   Án treo được quy định tại Điều 60 BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2009 và với BLHS 2015 thì án treo được quy định tại Điều 65.
   Điều kiện để được hưởng án treo trong quy định của BLHS 2015 cũng không có gì khác so với quy định của BLHS sửa đổi, bổ sung 2009. Điều kiện để hưởng án treo cũng được quy định khá chi tiết tại Nghị quyết Số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 2/10/2007, theo đó để được án treo phải đáp ứng được những điều kiện sau:
- Bị xử phạt tù không quá 3 năm, không phân biệt về tội gì;
Nếu bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội mà khi tổng hợp hình phạt, hình phạt chung không quá 3 năm tù thì cũng có thể cho hưởng án treo
- Có nhân thân tốt (chưa từng phạm tội trước đây); luôn thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của công dân, có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú cụ thể, rõ ràng.
Nếu đã có tiền án, tiền sự dù đã được xóa thì cũng không được coi là có nhân thân tốt.
- Có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên và không có tình tiết tăng nặng, trong đó có ít nhất là một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự. Trường hợp vừa có tình tiết giảm nhẹ vừa có tình tiết tăng nặng thì tình tiết giảm nhẹ phải nhiều hơn tình tiết tăng nặng từ hai tình tiết trở lên.
- Nếu không bắt họ đi chấp hành hình phạt tù thì không gây nguy hiểm cho xã hội hoặc không gây ảnh hưởng xấu trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Như vậy, xét về điều kiện để được hưởng án treo quy định trong BLHS 2015 không thay đổi so với quy định tại BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2009, tuy nhiên BLHS 2015 đã bổ sung thêm một quy định mới liên quan đến chế định này: Tại khoản 5 Điều 65 BLHS 2015 quy định: Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.
Nếu như với quy định của BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2009 thì chỉ khi phạm tội mới thì người đang chấp hành án treo mới phải buộc chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo và bản án của tội mới. Còn với quy định của Bộ luật hình sự 2015 thì được bổ sung thêm trường hợp, nếu cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên trong thời gian thử thách thì người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Với quy định này thì việc quản lý người được hưởng án treo tại địa phương sẽ chặt chẽ hơn.
Với những thông tin trên đây, hi vọng sẽ giúp quý khách hàng nắm rõ hơn quy định về án treo, trong trường hợp nào thì được hưởng án treo, và điều kiện khi hưởng án treo. Quý khách hàng hãy liên hệ với chúng tôi, Luật Việt Tín cung cấp dịch vụ tư vấn trong trường hợp cụ thể để giúp quý khách hàng bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình.